Trong các lớp Giáo Lý Tân Tòng, câu hỏi liên quan đến đạo hiếu của người Công Giáo thường được nêu lên, theo đó, đa số các Phật tử cho rằng những người Công Giáo không thắp nhang, cúng bái ông bà, tổ tiên, hoặc cha mẹ đã khuất là một hành vi bất hiếu, lỗi phạm đến những người đã khuất. Và câu trả lời là đạo Công Giáo không chỉ tôn kính, thảo hiếu, biết ơn tổ tiên, ông bà và cha mẹ, cả khi còn sống và sau khi đã qua đời mà hành động này còn là một “lề luật”, một đòi hỏi cần thiết.
Trong thời gian dân Do Thái lang thang trong sa mạc trên đường về đất hứa, có thể những lúc vất vả, thiếu thốn ấy, nhiều con cái đã cảm thấy việc nâng đỡ, chịu đựng và săn sóc cho ông bà, cha mẹ là một gánh nặng, một đòi hỏi quá sức, và vì thế đã có những suy nghĩ, lời nói và hành động xúc phạm đến các ngài. Do đó, Thiên Chúa đã ban hành một lề luật liên quan đến việc này. Ngài phán bảo Maisen truyền lại cho dân: “Hãy thảo kính cha mẹ các ngươi, để các ngươi được sống trường thọ trên phần đất mà Chúa, Thiên Chúa các ngươi sẽ ban cho các ngươi” (Xuất Hành 20:12). Sau này, trong những ngày đầu của Giáo Hội Công Giáo, Thánh Phaolô cũng nhắc lại với các tín hữu Êphêsô tương tự những gì mà Thiên Chúa đã phán với dân Do Thái xưa: “Hãy thảo kính cha mẹ” - đây là giới răn thứ nhất cùng với lời hứa - “để anh chị em được phúc và sống thọ trên mặt đất” (Eph 6:2-3).
Do đó, sự hiểu lầm về đạo hiếu nếu có giữa Công Giáo và Phật Giáo chỉ là do cách diễn tả và từ ngữ mà thôi. Một đàng cho việc hiếu thảo là đạo và do đó, phải thờ kính. Một đàng xem đó như một lề luật và thực hành bằng thái độ tôn kính, yêu mến. Còn việc cúng quả, nhang khói hay xin lễ, đọc kinh được xem như những hình thức biểu lộ.
Riêng đối với người Công Giáo, nói đến lòng hiếu thảo và tôn kính tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đặc biệt những người đã khuất, theo truyền thống Giáo Hội Công Giáo chúng ta không thể nhắc đến tháng 11, tháng theo truyền thống Giáo Hội dành riêng để kính nhớ và biết ơn những người đã khuất.
Nguồn gốc:
Trong Cựu Ước: “Ông Giuđa quyên được khoảng 2000 quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức, thì đây quả là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12:43-46).
Giáo hội từ những thế kỷ đầu cũng đã cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Thánh Augustinô (354-430) đã nói: “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”. Thánh Odilo (962-1048), Viện phụ Đan viện Cluny (đan viện này thời đó nằm trong phần đất của đế quốc Germany) đã có sáng kiến tổ chức lễ Cầu Hồn vào ngày 2-11 trong Đan viện Cluny của ngài vào năm 998 (có sách nói 1030). Về sau lễ này đã được truyền sang nước Pháp, giữa thế kỷ X, Đức Giáo hoàng Gioan XIV đã lập lễ Cầu Hồn trong Giáo Hội Rôma. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XV còn cho phép mọi linh mục được dâng 3 thánh lễ trong ngày này: Một cho các linh hồn mồ côi. Một theo ý chỉ của Đức Giáo Hoàng. Một theo ý chỉ của chính linh mục.
Nếu trùng vào ngày Chúa Nhật, ngày lễ sẽ được dời lại đến ngày 3-11.
Luyện Hình:
Đức tin Công Giáo dạy rằng, các tín hữu qua đời trong ân nghĩa của Thiên Chúa nhưng linh hồn họ vẫn chưa thẳng về Thiên Đàng. Các linh hồn này bị giam giữ tạm thời trong luyện ngục để thanh luyện những tội nhẹ, và để đền hết hình phạt của những tội đã được tha. Đây là thời gian sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết trước khi hưởng niềm vui thiên đàng (x. GLHTCG số 1030). Luyện hình hay luyện ngục hoàn toàn khác với nơi giam phạt của những kẻ bị án phạt đời đời là hỏa ngục. Giáo Hội đã trình bày Giáo lý của đức tin về luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia và Trentô.
“Luyện Hình”, được dịch từ chữ purgatorium hay purgatories của Latin, không phải để chỉ một tình trạng đau khổ bị hành hạ đau đớn như có nhiều người vẫn tưởng. “Luyện Hình” cũng không phải là một nơi chốn của đau khổ, mà là một trạng thái chưa trọn vẹn kết hợp trong vinh quang và hạnh phúc với Thiên Chúa. Các linh hồn trong tình trạng này đã hưởng vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa rồi, nhưng một cách nào đó vẫn chưa hoàn hảo. Họ sống trong vui mừng vì biết chắc chắn rằng họ sẽ kết hợp với Chúa trọn vẹn một lúc nào đó.
Vì là thời gian và trạng thái thanh luyện, theo Thánh Kinh (1 Cr 3:15; 1 Pr 1:7) luyện hình có liên quan đến một thứ lửa thanh luyện: “Đối với một số lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước trước ngày phán xét, theo như những gì Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn đời sau” (x. Mt 12:32). Theo đó, một số lỗi lầm được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” (Thánh Grêgôriô Cả, Dial. 4,39) (GLHTCG số 1031). [1]
Lửa Thanh Luyện:
Được Thánh Giáo Hoàng Piô X khuyến khích, Cha Victor Jouet đã thành lập Bảo Tàng Viện Luyện Hình (Small Purgatory Museum) ở Rôma, nơi trưng bày nhiều hiện vật bị đốt cháy hoặc những hình ảnh chụp lại những hiện vật bị đốt cháy, do các linh hồn được Thiên Chúa cho về gặp những người đang còn sống xin cầu nguyện, thánh lễ, để nhờ ơn ích của các việc này mà các linh hồn mau được hưởng nhan Thánh Chúa. Dưới đây là một vài truyển kể được thuật lại có liên quan đến những hiện vật được trưng bày tại Bảo Tàng Viện này:
1. Ngày 1-11-1731, Tu viện trưởng Panzini (Dòng Biển Đức Olivetan ở Mantua, Ý) hiện về với Mẹ Isabella Fomari (Dòng Thánh Clara ở Todi) khi Mẹ đang ngồi ở bàn làm việc. Tu viện trưởng Panzini nói rằng ngài đang chịu đau khổ nơi Luyện Hình. Lúc đó ngài đặt bàn tay lên bàn làm việc của Mẹ Isabella và đã in hình bàn tay lên chiếc bàn đó. Sau đó, ngài dùng ngón tay vẽ hình Thánh Giá lên bàn. Ngài cũng chạm tay vào tay áo của Mẹ Isabella và khiến tay của Mẹ Isabella bị phỏng và chảy máu. Áo và máu của Mẹ Isabella Fomari không có ở bảo tàng viện này, nhưng còn một miếng gỗ của chiếc bàn kia.
Mẹ Isabella đã kể lại cho Lm. Isidoro Gazata nghe chi tiết. Lm. Isidoro đã cho điều tra để xác định vết cháy kia là vết cháy do lửa siêu nhiên.
2- Ngày 5-6-1894, Nữ tu Maria Louis Gonzaga đã hiện về với Nữ tu Margherita và cho biết Chị đang chịu thanh luyện nơi Luyện Hình.
Nữ tu Maria là người đạo đức nhưng khi bị bệnh lao phổi, Chị buồn và cầu xin cho được mau chết để bớt đau đớn. Vài ngày sau, Chị qua đời một cách thánh thiện.
Khi hiện về, Nữ tu Maria mặc áo dòng, xung quanh có bóng mờ. Chị nói với Nữ tu Margherita rằng Chị đang ở trong Luyện Hình để đền tội vì thiếu kiên nhẫn khi bị bệnh nên đã cầu xin được chết sớm hơn ý Chúa định, và Chị xin Nữ tu Margherita cầu nguyện cho Chị.
Để chứng tỏ mình đang chịu đau khổ trong Luyện Hình, Chị đã chạm tay vào chiếc gối đầu của Nữ tu Margherita và làm lủng một lỗ. Sau đó, Chị đã hiện về hai lần để cảm ơn Nữ tu Margherita đã cầu nguyện cho mình, và cho biết rằng Chị sẽ sớm được cứu thoát khỏi Luyện Hình. Chị cũng đưa ra vài lời khuyên cho các nữ tu trong cộng đoàn Dòng Thánh Clara.
3- Ngày 5-3-1871, Palmira Rastelli hiện về với bạn là Maria Zaganti để xin người anh của chị là Lm. Sante Rastelli dâng lễ cầu hồn cho mình. Chị mới qua đời hơn ba tháng, và đang ở trong Luyện Hình. Chị Palmira đã đặt mấy ngón tay lên sách kinh của Maria và để lại vết cháy của ba ngón tay trên đó.
4- Thánh Catherine Genoa nói về Luyện Hình rằng có sự đau khổ trong lửa, nhưng đồng thời cũng có tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa và sự an ủi là cuối cùng thì các linh hồn trong đó cũng sẽ được lên Thiên Đàng. Chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện cho các linh hồn. Họ sẽ không bao giờ quên chúng ta đã cầu nguyện cho họ. Chúng ta thật hạnh phúc được là người Công Giáo, biết về sự hiệu quả của ân xá và lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Hình. Nếu chúng ta giúp đỡ họ, sẽ có người khác giúp đỡ chúng ta sau khi chúng ta qua đời. [2]
Cầu cho các Linh Hồn:
Mầu nhiệm các thánh cùng thông công có 2 nghĩa: “hiệp thông trong các thực tại thánh (santa)” và “hiệp thông giữa những người thánh (santi)”. Đức Kitô đã nối kết chúng ta bằng mầu nhiệm tình yêu của Ngài: “Tất cả chúng ta là một trong Đức Kitô” (Gl 3:28b). Qua đó, chúng ta được trở thành những chi thể trong cùng một thân thể duy nhất, mà Chúa Kitô là Đầu. Nhờ Thập Giá và sự Phục Sinh của Ngài đã nối kết Giáo Hội lữ hành nơi trần thế và Giáo Hội thanh luyện nơi luyện hình, cũng như Giáo Hội khải hoàn trên thiên quốc.
Tháng 11 là thời điểm tốt để chúng ta cầu nguyện, xin lễ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, và những người thân yêu đã qua đời. Đặc biệt lãnh ơn Toàn Xá được Giáo Hội ban để nhường lại cho các ngài.
Ơn Toàn Xá
1- Từ ngày 1 đến hết ngày 8 tháng 11, bất cứ ngày nào trong các ngày ấy, Tín Hữu viếng Nghĩa Trang và cầu nguyện cho người chết, thì được hưởng Một Ơn Toàn Xá (Plenary Indulgence) chỉ để nhường cho các Linh hồn trong Luyện Ngục và chỉ được hưởng một Ơn mỗi ngày.
2- Trong ngày Lễ Các Linh Hồn (ngày 2 tháng 11), Tín Hữu kính viếng nhà thờ, đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Tin Kính, thì được hưởng một Ơn Toàn Xá (Plenary Indulgence) chỉ để nhường cho các Linh hồn trong Luyện Ngục và chỉ được hưởng một Ơn trong ngày ấy.
Lưu ý: Việc đọc Kinh Lạy cha và Kinh Tin Kính là việc làm khi kính viếng Nhà Thờ, không miễn chuẩn cho việc Cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.
3- Ngoài ra, mỗi ngày, Tín Hữu nào có ý xin hưởng ơn Toàn Xá và thi hành một trong các việc ấn định có Ơn Toàn xá, như sau, thì được Ơn Toàn Xá:
– Đọc Kinh Thánh với lòng cung kính Lời Chúa như sách thiêng liêng, ít là nửa giờ.
– Chầu Mình Thánh Chúa ít là nửa giờ.
– Viếng Đàng Thánh Giá đủ 14 nơi.
– Lập lại lời mình đã hứa khi chịu Phép Rửa Tội trong ngày kỷ niệm Phép Rửa Tội của mình, theo mẫu quen dùng.
– Đọc một chuỗi Mân Côi 50 Mùa Mừng trong Nhà Thờ, Nhà Nguyện, trong Hội đạo đức, hay trong gia đình.
Lưu ý: Ngoài điểm 1 và 2, các Ơn ở điểm 3, Tín Hữu có thể giữ cho mình hoặc nhường cho các Linh hồn đã qua đời, không được nhường cho người còn đang sống.
Điều Kiện Hưởng Ơn Toàn Xá:
Xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng .
Lưu ý: Xưng tội một lần thì đủ điều kiện để hưởng Ơn Toàn Xá nhiều lần, nhưng mỗi lần Rước lễ và Cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng thì chỉ được hưởng một Ơn Toàn Xá. [3]
______________
Tham khảo:
1. Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa Của Lễ Cầu Cho Các Đẳng Linh Hồn
Văn Nguyễn
Nguồn: conggiao.info
2. TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ TraditionalCatholicPriest.com)
Nguồn: https://www.giaophandanang.org/nhung-bang-chung-ve-lua-thanh-luyen-cac-linh-hon.html
3.CẨM NANG ÂN XÁ – MANUAL OF INDULGENCES –
Của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, Ấn Bản 2006. Chiếu theo Sổ Bộ Ân Xá – ENCHIRIDION INDULGENTIARUM –
của Bộ Xá Giải Tòa Thánh, Ấn Bản Thứ Bốn 1999)
Nguồn: https://www.giaophandanang.org/on-toan-xa-thang-cac-linh-hon.html
Câu truyện sau đây được một người thân kể lại có liên quan đến hai chữ “khẩu nghiệp”, với lời nhắn là ai đó, xin đừng tạo nghiệp cho mình bằng cách làm tổn thương người khác. Chị sinh ra trong một gia đình giầu có và đông anh chị em. Tuy cùng cha, nhưng gia đình có nhiều “mẹ”, nên mặc dù anh chị em thương yêu nhau, vẫn không tránh khỏi những khác biệt về tâm lý, suy nghĩ, và hành động.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?